Nam tính bá quyền

Trong nghiên cứu giới, nam tính bá quyền (tiếng Anh: hegemonic masculinity) là một phần trong lý thuyết trật tự giới tính (gender order theory) của R. W. Connell. Lý thuyết này thừa nhận rằng có nhiều dạng nam tính khác nhau biến đổi theo thời gian, xã hội, văn hóa và đến từng cá nhân.[1][2][3] Nam tính bá quyền được định nghĩa là một thực hành nhằm hợp pháp hóa vị trí thống trị của nam giới trong xã hội và biện minh cho sự lệ thuộc (subordination) của cộng đồng nam giới bình thường (common) và phụ nữ, cũng như những cách bị lề hóa khác của việc là nam giới.[1][4] Về mặt khái niệm, nam tính bá quyền đề xuất giải thích nguyên nhân và cách thức nam giới duy trì vai trò xã hội thống trị trước phụ nữ và các bản dạng giới khác, vốn bị nhìn nhận như là "mang tính nữ" ("đàn bà" - feminine) trong một xã hội nhất định.[1]

Khái niệm về nam tính bá quyền ban đầu đại diện cho hình thức nam tính được lý tưởng hóa về mặt văn hóa. Nam tính này tách biệt về mặt xã hội và thứ bậc và quan tâm đến việc làm trụ cột; nó gây lo lắng (anxiety-provoking) và mang tính phân biệt (bên trong và thứ bậc) (differentiated internally and hierarchically; cục súc và bạo lực, giả tạo và cứng rắn, mâu thuẫn về mặt tâm lý và do đó dễ khủng hoảng; giàu có về mặt kinh tế và bền vững về mặt xã hội.[5] Tuy nhiên, nhiều nhà xã hội học chỉ trích việc định nghĩa về nam tính bá quyền như một kiểu tính cách cố định. Nó bị hạn chế về mặt phân tích, vì nó loại trừ sự phức tạp của các hình thức nam tính khác nhau và cạnh tranh với nhau.[1][3] Do đó, khái niệm nam tính bá quyền đã được cải tổ để dung chứa hệ thống phân cấp giới tính, phân bổ địa lý của các cấu hình nam tính (geography of masculine configurations), các quá trình nghiệm thân xã hội (processes of social embodiment) và động lực tâm lý-xã hội của các loại nam tính khác nhau.

Những người ủng hộ khái niệm nam tính bá quyền cho rằng nó hữu dụng về mặt khái niệm để hiểu các mối quan hệ về giới tính (gender relations), và có thể áp dụng được cho tăng trưởng tuổi thọ (life-span development), giáo dục, tội phạm học, sự trình hiện (representation) của nam tính trên các phương tiện truyền thông đại chúng, sức khỏe của nam giớiphụ nữ, và cơ cấu chức năng của các tổ chức.[3] Các nhà phê bình thì cho rằng nam tính bá quyền mang tính nhị nguyên về giới (heteronormative), không tự tái sản sinh (self-reproducing), bỏ qua các mặt tích cực của nam tính, đặt cơ sở trên một quan niệm ngầm định không đầy đủ về nam tính, hoặc quá mơ hồ để có thể áp dụng vào thực tế.

Mô tả

Mô hình mang tính chu kỳ về cách sản sinh, tái sản sinh và duy trì nam tính bá quyền

Terry Kupers của Viện Wright mô tả khái niệm nam tính bá quyền theo như sau:

Trong văn hóa Mỹ và châu Âu đương đại, [nam tính bá quyền] đóng vai trò là tiêu chuẩn để xác định "người đàn ông đích thực". Theo [R. W.] Connell, nam tính bá quyền đương đại được xây dựng trên hai chân, sự thống trị của phụ nữ và sự phân cấp thống trị giữa nam giới với nhau. Nó cũng được định hình ở một mức độ đáng kể qua sự kỳ thị với đồng tính luyến ái. Nam tính bá quyền là định nghĩa mang tính khuôn mẫu về nam tính, thứ định hình quá trình xã hội hóa (the socialization) và khát vọng [hướng tới .ND – aspirations] của nam thanh niên. Nam tính bá quyền ở Hoa Kỳ và Châu Âu hiện nay có nghĩa là mức độ cạnh tranh cao đến mức tàn nhẫn, không có khả năng thể hiện cảm xúc nào khác ngoài tức giận; không sẵn sàng thừa nhận sự yếu đuối hay phụ thuộc, hạ thấp giá trị của phụ nữ và mọi đặc tính mang tính nữ tính ở nam giới, kỳ thị đồng tính v.v..[6]

Tài liệu tham khảo

  1. ^ a b c d Scott, John biên tập (2015) [1994]. “Hegemonic masculinity”. A Dictionary of Sociology (ấn bản 4). Oxford and New York: Oxford University Press. tr. 302. doi:10.1093/acref/9780199683581.001.0001. ISBN 9780191763052. LCCN 2014942679.
  2. ^ French, Henry; Rothery, Mark (2011). “Hegemonic Masculinities? Assessing Change and Processes of Change in Elite Masculinity, 1700–1900”. Trong Arnold, John H.; Brady, Sean (biên tập). What is Masculinity?: Historical Dynamics from Antiquity to the Contemporary World. Genders and Sexualities in History. London and New York: Palgrave Macmillan. tr. 139–166. doi:10.1057/9780230307254_8. ISBN 978-0-230-30725-4.
  3. ^ a b c Risman, Barbara biên tập (tháng 12 năm 2005). “Hegemonic Masculinity: Rethinking the Concept” (PDF). Gender & Society. SAGE Publications in association with Sociologists for Women in Society. 19 (6): 829–859. doi:10.1177/0891243205278639. ISSN 1552-3977. JSTOR 7640853. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2021.
  4. ^ Connell, R. W. (2005). Masculinities (ấn bản 2). Berkeley and Los Angeles: University of California Press. ISBN 9780745634265.
  5. ^ Donaldson, Mike (tháng 10 năm 1993). “What is hegemonic masculinity?”. Theory and Society. 22 (5): 643–657. doi:10.1007/BF00993540. JSTOR 657988.
  6. ^ Kupers, Terry A. (tháng 6 năm 2005). “Toxic masculinity as a barrier to mental health treatment in prison”. Journal of Clinical Psychology. 61 (6): 713–724. CiteSeerX 10.1.1.600.7208. doi:10.1002/jclp.20105. PMID 15732090.